CỐ Ý GÂY THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Tortious (wrongful) acts may be committed either intentionally or unintentionally. Those that are committed intentionally - that is, deliberately rather than by accident or mistake - are known as intentional or willful torts. Conversely, those that are committed accidentally, such as negligence, are referred to as unintentional torts.
Các hành vi gây thiệt hại (ngoài hợp đồng) có thể được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Những hành vi được thực hiện một cách cố ý - nghĩa là có mục đích chứ không phải vô tình hay nhầm lẫn - được gọi là cố ý gây thiệt hại. Ngược lại, những hành vi được thực hiện một cách vô ý, chẳng hạn như sơ suất, được gọi là vô ý gây thiệt hại.
Assault and battery
Đe dọa dùng vũ lực và cố ý gây thương tích
Assault and battery are examples of intentional torts that are also crimes. In such cases, the state can bring a criminal action; in addition, victims can bring a tort suit against the wrongdoer. Battery is defined as the intentional contact with another person without that person's permission and without justification. Assault is the intentional creation of a reasonable apprehension of an imminent battery. Pointing a gun at someone is an assault: the bullet striking the person is a battery.
Đe dọa dùng vũ lực và cố ý gây thương tích là những ví dụ về hành vi cố ý gây thiệt hại và cũng được coi là tội phạm. Trong những trường hợp như vậy, nhà nước có thể khởi tố vụ án; ngoài ra, các nạn nhân có thể khởi kiện người vi phạm để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Cố ý gây thương tích được định nghĩa là sự tấn công người khác có chủ ý mà không có lý do hay sự cho phép của người đó. Đe dọa dùng vũ lực là việc cố ý tạo ra một sự sợ hãi hợp lý về việc dùng vũ lực sắp xảy ra. Chĩa súng vào ai đó là đe dọa dùng vũ lực: viên đạn bắn vào người đó là cố ý gây thương tích.
Verbal threats alone, in most states, are not enough to constitute an assault. To convert a threat into an assault requires some act to indicate that the battery will ensue immediately. Although every battery includes an assault, an assault does not necessarily require a battery.
Ở hầu hết các bang, việc chỉ đe dọa bằng lời nói, không đủ để cấu thành việc đe dọa dùng vũ lực. Để chuyển một mối đe dọa thành đe dọa dùng vũ lực đòi hỏi một số hành động để chỉ ra rằng việc cố ý gây thương tích sẽ xảy ra ngay lập tức. Mặc dù mọi hành vi cố ý gây thương tích đều bao gồm việc đe dọa dùng vũ lực, tuy nhiên, việc đe dọa dùng vũ lực không nhất thiết phải có việc cố ý gây thương tích.
False imprisonment
Bắt giam / giam giữ người trái pháp luật
False imprisonment (also called false arrest) is the intentional confinement of a person without legal justification. It is a restraint on a person's liberty. The person who is confined need not be held within an enclosure of any kind or even touched by the other person. It is considered to be a confinement if a person apprehends that physical force will be used if he or she attempts to leave.
Giam giữ người trái pháp luật (còn được gọi là bắt giam người trái pháp luật) là việc cố ý giam giữ một người mà không có lý do pháp lý chính đáng. Đó là sự hạn chế quyền tự do của một người. Người bị giam giữ không cần bị giam giữ trong bất kỳ hình thức bao vây nào hoặc thậm chí bị người khác chạm vào. Nó được coi là một sự giam cầm nếu một người sợ rằng việc dùng vũ lực sẽ được sử dụng nếu người đó cố gắng rời đi.
Many cases of false imprisonment arise out of situations in which suspected shoplifters are detained by store proprietors without reasonable grounds for doing so. The person who is detained may sue the store for damages arising from the false imprisonment.
Nhiều trường hợp giam giữ người trái pháp luật phát sinh do các tình huống trong đó những người bị nghi ngờ trộm cắp bị chủ cửa hàng giam giữ mà không có căn cứ hợp lý để làm như vậy. Người bị giam giữ có thể kiện cửa hàng về những thiệt hại phát sinh từ việc giam giữ người trái pháp luật.
Store owners, in some states, have the protection of statutes that allow the detention, for a reasonable length of time and in a reasonable manner, of a person suspected of shoplifting if reasonable grounds for such suspicion exist. Generally, it is reasonable to detain a person if goods that were not purchased are concealed in the clothing or among the belongings of a shopper.
Ở một số tiểu bang, chủ cửa hàng có sự bảo vệ của các đạo luật cho phép giam giữ người bị nghi ngờ ăn cắp trong một khoảng thời gian hợp lý và theo cách thức hợp lý nếu có cơ sở hợp lý cho việc nghi ngờ đó. Nói chung, việc giam giữ một người là hợp lý nếu hàng hóa không được mua được giấu trong quần áo hoặc trong đồ đạc của người mua hàng.
Edited by Nguyễn Nhật Linh
Comments