PHÁP LUẬT VỀ BẤT ĐỘNG SẢN
Real property can be divided into freehold estates and leaseholds.
Bất động sản có thể được chia thành bất động sản sở hữu không giới hạn và bất động sản thuê.
Freehold estates are those in which an individual has ownership of land for an indefinite period of time. It is important to note that in property law, the term land refers to real estate (and everything that grows on that real estate), any improvements to the real estate (e.g. buildings) and the right to the minerals underneath the land and the airspace above it. There are generally three types of freehold estate in English-speaking jurisdictions: the fee simple, the life estate and the estate pur autre vie. A fourth type of freehold estate, the fee tail, is now largely obsolete. The transfer of title in land from one person to another is known as the conveyance.
Bất động sản sở hữu không giới hạn là những bất động sản mà một cá nhân có quyền sở hữu đối với bất động sản đó vô thời hạn. Điều quan trọng cần lưu ý là trong luật tài sản, thuật ngữ đất đai đề cập đến bất động sản (và mọi thứ phát triển trên bất động sản đó), bất kỳ công trình nào gắn liền với bất động sản (ví dụ: các tòa nhà) và quyền đối với các khoáng sản bên dưới đất và vùng trời ở trên nó. Nhìn chung, có ba loại bất động sản sở hữu không giới hạn trong các quốc gia nói tiếng Anh: bất động sản sở hữu vô thời hạn (quyền và lợi ích trên đất của một người không bị giới hạn về thời gian và do đó có thể để lại thừa kế); bất động sản sở hữu có thời hạn (quyền và lợi ích trên đất tồn tại trong suốt cuộc đời của người sở hữu); bất động sản sở hữu có thời hạn khác (quyền và lợi ích đối với bất động sản trong suốt cuộc đời của người sở hữu và quyền sở hữu sẽ chuyển sang bên khác khi người sở hữu qua đời theo ý nguyện của người sở hữu đó). Loại bất động sản sở hữu không giới hạn thứ tư, quyền sử dụng bất động sản không giới hạn (một loại quyền sở hữu trước đây đối với một tài sản gắn liền trên đất với những hạn chế hoặc vướng mắc về hàng thừa kế), hiện nay phần lớn đã lỗi thời. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu bất động sản từ người này sang người khác được gọi là chuyển nhượng quyền sở hữu bất động sản.
The most complete unlimited form of freehold estate is the fee simple, which is inheritable and lasts as long as the owner (or any subsequent heirs) wants to keep it. A life estate is one in which the individual retains possession of the land for the duration of his or her life. Although the ownership of a life estate is technically temporary because it ends when the owner dies. It is treated as complete ownership (fee simple) for the duration of the person’s life.
Hình thức hoàn chỉnh nhất của bất động sản sở hữu không giới hạn là bất động sản sở hữu vô thời hạn, có thể thừa kế và tồn tại miễn là chủ sở hữu (hoặc bất kỳ người thừa kế tiếp theo) muốn giữ nó. Bất động sản sở hữu có thời hạn là bất động sản mà cá nhân giữ quyền sở hữu bất động sản đó trong suốt cuộc đời của mình. Mặc dù quyền sở hữu bất động sản về mặt kỹ thuật là tạm thời vì nó chấm dứt khi chủ sở hữu qua đời. Nó được coi là quyền sở hữu hoàn toàn (bất động sản sở hữu hoàn toàn) trong suốt cuộc đời của người đó.
The estate pur autre vie is similar to the life estate, but differs in that it is measured by the life of someone other than the grantee (to whom an interest in the real property is conveyed by a grantor. An example of an estate pur autre vie would be a landowner who wishes to leave property to a charity in her will, but to enjoy tax savings during her life. She could formally donate the property but retain possession during her own life (a life estate) and specify that she wants someone, e.g. her husband, to be able to remain in the property should he outlive her (estate pur autre vie).
Bất động sản sở hữu có thời hạn khác thì tương tự như bất động sản sở hữu có thời hạn, nhưng khác ở chỗ nó được đo bằng tuổi thọ của một người nào đó không phải là bên nhận chuyển nhượng (người được chuyển nhượng quyền lợi đối với bất động sản đó bởi bên chuyển nhượng). Một ví dụ về bất động sản sở hữu có thời hạn khác sẽ là một chủ đất muốn để lại tài sản đó cho một tổ chức từ thiện trong di chúc của bà ấy, nhưng để hưởng khoản tiết kiệm về thuế trong suốt cuộc đời của mình. Bà ấy có thể chính thức tặng cho tài sản nhưng vẫn giữ quyền sở hữu trong suốt cuộc đời của mình (bất động sản sở hữu có thời hạn) và nói rõ rằng bà ấy muốn ai đó, ví dụ, chồng của bà ấy, để có thể giữ lại tài sản nếu ông ấy sống lâu hơn bà ấy (bất động sản sở hữu có thời hạn khác).
In common-law jurisdictions, leasehold interests in land are sometimes classified as personal property, along with tangible property such as goods and chattels. Leaseholds are property interests of limited duration and are generally created through a lease - a contract for exclusive possession in return for which the tenant pays the landlord or landlady a specified rent or compensation. A license is like a lease, but is generally for a shorter period of time, usually less than 12 months. Furthermore if there is no exclusive possession of the property (as in a hotel room), then a license is created, not a lease. A licensee is not granted any title interest in the land, merely permission to enter it for a specific purpose that would otherwise constitute a trespass.
Ở các quốc gia theo hệ thống thông luật, tài sản thuê gắn liền với đất đai đôi khi được phân loại là tài sản cá nhân, cùng với tài sản hữu hình như hàng hóa và động sản. Bất động sản cho thuê là quyền lợi về tài sản có thời hạn và thường được tạo ra thông qua hợp đồng cho thuê - một hợp đồng cho việc độc quyền sở hữu để đổi lại người thuê trả cho chủ đất hoặc chủ nhà một khoản tiền thuê hoặc tiền bồi thường cụ thể. Giấy phép giống như một hợp đồng thuê nhà, nhưng thường là trong một khoảng thời gian ngắn hơn, thường là dưới 12 tháng. Hơn nữa, nếu không có quyền sở hữu độc quyền đối với tài sản (như trong một phòng khách sạn), thì giấy phép sẽ được tạo ra, chứ không phải là hợp đồng cho thuê. Người được cấp phép không được cấp bất kỳ quyền sở hữu nào đối với bất động sản, chỉ đơn thuần là được phép vào bất động sản đó cho một mục đích cụ thể mà nếu không có giấy phép đó sẽ cấu thành một hành vi xâm phạm bất động sản của người khác.
The statute of Frauds is generally applicable to interests in land, requiring that instruments such as deeds, real-estate sales contracts and certain leases be in writing to be legally enforceable.
Đạo luật buộc một số hợp đồng phải được lập bằng hình thức là văn bản nói chung được áp dụng cho các quyền lợi về bất động sản, yêu cầu các văn bản như văn bản chuyển quyền sở hữu bất động sản, hợp đồng mua bán bất động sản và một số hợp đồng thuê nhất định phải được ký kết bằng văn bản để có thể có khả năng thực thi về mặt pháp lý.
Edited by Nguyễn Nhật Linh
Comments